linhnham05
Junior Member
Với vài người bị bệnh bệnh lý về van tim, điều trị nội khoa thường chỉ định trong một số trường hợp nhẹ và vừa, chưa có biểu hiện suy tim hoặc một vài dấu hiệu trở nặng. Thực tế cũng cho thấy rằng, nếu ko cấp bách phải phẫu thuật ngay, chữa trị nội khoa là một biện pháp tích cực.
Trị liệu nội khoa là một liệu pháp chữa tim mạch tích cực và quan trọng vì 2 lý vì sau:
– đầu tiên, có phần lớn trường hợp người bệnh là người lớn tuổi với chứng bệnh van tim thoái hoá có dấu hiệu mà ko thể can thiệp ngoại khoa vì nguy cơ khi mổ. trong lúc này, chữa trị nội khoa là chọn lựa thiết thực nhất.
=> Tìm hiểu cách trị viêm họng
– Thứ hai, có một viễn cảnh thực tế là chữa nội khoa khiến cho thay đổi tiến triển ngẫu nhiên của vài bệnh van tim, cho bắt buộc có thể trì hoãn hoặc giảm thiểu can thiệp ngoại khoa.
Rối loạn chức năng tâm thu thất trái gây bởi hội chứng thiếu máu cơ tim là vấn đề cơ bản của số đông người bệnh tham gia trong thử nghiệm trị nội khoa (thuốc ức chế men chuyển, kháng thụ thể angiotensin, thuốc giãn mạch máu, chẹn, lợi tiểu giữ kali) cho bệnh lý suy tim. tuy nhiên, một số thử nghiệm này gồm vài người bệnh bị bệnh van tim và một số nguyên tắc đã được học sẽ được áp dụng rộng rãi.
Ðiều trị nội khoa có khả năng làm thay đổi bệnh lý sử tự dưng của căn bệnh van tim bằng hai cách:
– thứ nhất, diều chữa nội khoa khiến chậm tiến triển hội chứng van tim , ví dụ: làm cho chậm xơ hoá, sẹo hoá và canxi hóa bằng cách sử dụng kháng viêm trong vài thể của bệnh van tim thoái hóa và hậu thấp.
– Thứ hai, trị nội khoa có khả năng cản trở ngừa và cải thiện hậu quả tai hại của bệnh cơ tim thứ phát. ví dụ, trị liệu thuốc giãn mạch có khả năng hỗ trợ đảm bảo cơ tim của những bệnh nhân quá tải thể tích thất trái vì hở van hai lá hoặc hở van động mạch máu chủ mạn tính.
=> Tìm hiểu thêm: viêm họng kéo dài
Sinh lý hội chứng
Hẹp van động mạch máu chủ vôi hóa có thể có ảnh hưởng ra bởi tiến trình vôi hóa của van ba lá, thường ở lứa tuổi 40 – 50.
bệnh tiến triển thường hay liên quan xơ vữa động mạch và có khả năng mắc điều chỉnh bởi sức ép cơ học (hao mòn dần), lắng đọng lipid, và sự viêm nhiễm; chứng bệnh động mạch vành cần thiết có ở 50% người mắc bệnh với hẹp động mạch máu chủ đóng vôi và cả hai chứng bệnh trên có rất nhiều khía cạnh nguy cơ giống nhau với mức độ tương tự.
hội chứng van động mạch máu chủ hậu thấp thuờng có ảnh hưởng ra tổn thương hẹp – hở phối hợp và thường hài hòa với bệnh van hai lá.
Hẹp động mạch máu chủ tăng trưởng chậm và trong lúc đầu cung lượng tim duy trì ở mức chênh áp ngang van động mạch chủ tăng vừa cần. trong lúc thất trái phì đại dần và máu qua động mạch máu vành không đủ; người bị bệnh có khả năng có nóng ngực ngay cả tự dưng có hội chứng mạch vành kết hợp.
Sự tắc nghẽn dòng ra cố định giới hạn sự tăng cung lượng tim khi vận động và hiện trạng tụt huyết áp và ngất có khả năng xảy ra khi gắng sức. Hậu quả là thất trái không thể vượt qua dấu hiệu tắc nghẽn đường ra thất trái, và suy thất trái xảy ra sau đấy.
người bị mắc bệnh hẹp chủ điển hình ko có hiện tượng trong nhiều năm, những khi hiện tượng xuất hiện thì chứng bệnh nhanh chóng diễn tiến vô cùng xấu; cho phải tử vong dễ xảy ra trong vòng 3-5 năm sau khi có hiện trạng.
Kiểm soát dấu hiệu
Hẹp động mạch máu chủ có hiện trạng là một hiện tượng ngoại khoa và phát triển thành lý vì chung nhất cho việc thay van ở các nước tăng trưởng. nhưng mà, ở bệnh nhân già yếu không thích hợp cho việc phẫu thuật thì hẹp động mạch máu chủ có biểu hiện là yếu tố làm nhức ngực và suy tim, và việc chữa trị nội khoa cho những người mắc bệnh này là biện pháp điều trị duy nhất để làm suy giảm tình trạng.
dùng thận trọng thuốc chẹn và nitrate có thể kiểm soát được đau ngực, nhưng nitrate có thể làm tụt huyết áp có tình trạng, đặc thù là sử dụng sau khi gắng sức. Thuốc lợi tiểu có khả năng khiến cho suy giảm triệu chứng sung huyết phổi, nhưng cũng buộc phải nhớ rằng với những bệnh nhân hẹp động mạch chủ nặng thì phụ thuộc vào áp lực đổ đầy thất và việc dùng lợi tiểu qúa mức có thể làm nguy hại.
Digoxin có lợi đối với người mắc bệnh rung nhĩ hoặc suy chức năng tâm thu thất trái. Rung nhĩ sẽ dung nạp kém và trong tình huống này cần tìm mọi cách điều chỉnh nhịp xoang từ sốc điện chuyễn nhịp, hoặc thuốc phòng loạn nhịp amiodarone.
tất cả các bác sỹ tránh sử dụng ức chế men chuyển trên một số người mắc bệnh hẹp động mạch chủ và suy tim bởi vì những thuốc này ko làm giảm hậu tải thất trái và nguy hiểm là có thể làm tụt huyết áp.
Nhưng các nghiên cứu lâm sàng nhỏ đánh giá trị liệu ngắn hạn của những thuốc giãn mạch đã loại bỏ một vài mối nghi ngờ trên. ví dụ như, hai nghiên cứu lâm sàng nhỏ mô tả hữu hiệu tức thì của captopril trong hẹp động mạch chủ nặng (độ chênh áp trung bình qua van ĐMC là 78 và 93 mmHg) không các không làm tụt huyết áp mà còn khiến cho tăng cung lượng tim trung bình rõ ràng và áp lực mô mạch máu phổi bít suy giảm một phương pháp đáng kể trên đa số người mắc bệnh.
Trong các nghiên cứu này, cung lượng tim trung bình tăng 41% trong một vài người bị mắc bệnh có suy tim thực sự. Hơn nữa người bị bệnh có đáp ứng huyết động học rất hiệu quả bằng việc chữa trị lâu dài.
phải những nghiên cứu sâu hơn để chứng minh nhưng một điều rõ ràng là các người mắc bệnh suy tim có hẹp động mạch máu chủ có thể có tốt bằng việc sử dụng ức chế men chuyển và một số thuốc này đang được giới thiệu một biện pháp thận trọng trong bệnh viện.
Hạn chế ngừa thứ phát
Trong hẹp động mạch chủ, nghiên cứu về tiến triển tự nhiên đã cho thấy diện tích van giảm hằng năm là 0.1cm2, với sự tăng vận tốc trung bình dòng phụt qua siêu âm màu là 0.3 m/s/năm (tương đương với độ chênh áp tăng 7mmHg/năm). tuy vậy, điều này chuyển đổi đáng nhắc và có xu hướng nhiều hơn ở người già, ở những người có vôi hóa van ÐMC, có tăng lipid máu.
Một nghiên cứu ở 170 người bệnh với nồng độ cholesterol trong máu cao hơn 5.2mmol/l (200mg/dl) thì suy giảm thể tích van ÐMC gấp đôi. Hơn nữa, một nghiên cứu hồi cứu có chủ đích gần đây cho thấy việc dùng chất ức chế men HMG CoA(statin) liên quan đáng nói đến giảm tỉ lệ hẹp van ÐMC ( trung bình (SD) 0.06(0.16 ) cm2 so với 0.11 (0.11) cm2/năm).
=> Tìm hiểu thêm: cách chữa viêm họng cho trẻ sơ sinh
vài nghiên cứu này có ngụ ý rõ ràng cho việc ngăn ngừa ngừa thứ phát trong vài người mắc bệnh hẹp ÐMC vôi hóa, và một số thử nghiệm đối chứng tự nhiên đã sinh ra giả thuyết rằng trị liệu làm giảm lipid máu từ ức chế men HMG CoA thường khiến chậm quá trình tiến triển của bệnh lý. vài thử nghiệm điều trị từ aspirin và thuốc hạ áp cũng đã được chứng minh là có lợi.
Trị liệu nội khoa là một liệu pháp chữa tim mạch tích cực và quan trọng vì 2 lý vì sau:
– đầu tiên, có phần lớn trường hợp người bệnh là người lớn tuổi với chứng bệnh van tim thoái hoá có dấu hiệu mà ko thể can thiệp ngoại khoa vì nguy cơ khi mổ. trong lúc này, chữa trị nội khoa là chọn lựa thiết thực nhất.
=> Tìm hiểu cách trị viêm họng
– Thứ hai, có một viễn cảnh thực tế là chữa nội khoa khiến cho thay đổi tiến triển ngẫu nhiên của vài bệnh van tim, cho bắt buộc có thể trì hoãn hoặc giảm thiểu can thiệp ngoại khoa.
Rối loạn chức năng tâm thu thất trái gây bởi hội chứng thiếu máu cơ tim là vấn đề cơ bản của số đông người bệnh tham gia trong thử nghiệm trị nội khoa (thuốc ức chế men chuyển, kháng thụ thể angiotensin, thuốc giãn mạch máu, chẹn, lợi tiểu giữ kali) cho bệnh lý suy tim. tuy nhiên, một số thử nghiệm này gồm vài người bệnh bị bệnh van tim và một số nguyên tắc đã được học sẽ được áp dụng rộng rãi.
Ðiều trị nội khoa có khả năng làm thay đổi bệnh lý sử tự dưng của căn bệnh van tim bằng hai cách:
– thứ nhất, diều chữa nội khoa khiến chậm tiến triển hội chứng van tim , ví dụ: làm cho chậm xơ hoá, sẹo hoá và canxi hóa bằng cách sử dụng kháng viêm trong vài thể của bệnh van tim thoái hóa và hậu thấp.
– Thứ hai, trị nội khoa có khả năng cản trở ngừa và cải thiện hậu quả tai hại của bệnh cơ tim thứ phát. ví dụ, trị liệu thuốc giãn mạch có khả năng hỗ trợ đảm bảo cơ tim của những bệnh nhân quá tải thể tích thất trái vì hở van hai lá hoặc hở van động mạch máu chủ mạn tính.
=> Tìm hiểu thêm: viêm họng kéo dài
Sinh lý hội chứng
Hẹp van động mạch máu chủ vôi hóa có thể có ảnh hưởng ra bởi tiến trình vôi hóa của van ba lá, thường ở lứa tuổi 40 – 50.
bệnh tiến triển thường hay liên quan xơ vữa động mạch và có khả năng mắc điều chỉnh bởi sức ép cơ học (hao mòn dần), lắng đọng lipid, và sự viêm nhiễm; chứng bệnh động mạch vành cần thiết có ở 50% người mắc bệnh với hẹp động mạch máu chủ đóng vôi và cả hai chứng bệnh trên có rất nhiều khía cạnh nguy cơ giống nhau với mức độ tương tự.
hội chứng van động mạch máu chủ hậu thấp thuờng có ảnh hưởng ra tổn thương hẹp – hở phối hợp và thường hài hòa với bệnh van hai lá.
Hẹp động mạch máu chủ tăng trưởng chậm và trong lúc đầu cung lượng tim duy trì ở mức chênh áp ngang van động mạch chủ tăng vừa cần. trong lúc thất trái phì đại dần và máu qua động mạch máu vành không đủ; người bị bệnh có khả năng có nóng ngực ngay cả tự dưng có hội chứng mạch vành kết hợp.
Sự tắc nghẽn dòng ra cố định giới hạn sự tăng cung lượng tim khi vận động và hiện trạng tụt huyết áp và ngất có khả năng xảy ra khi gắng sức. Hậu quả là thất trái không thể vượt qua dấu hiệu tắc nghẽn đường ra thất trái, và suy thất trái xảy ra sau đấy.
người bị mắc bệnh hẹp chủ điển hình ko có hiện tượng trong nhiều năm, những khi hiện tượng xuất hiện thì chứng bệnh nhanh chóng diễn tiến vô cùng xấu; cho phải tử vong dễ xảy ra trong vòng 3-5 năm sau khi có hiện trạng.
Kiểm soát dấu hiệu
Hẹp động mạch máu chủ có hiện trạng là một hiện tượng ngoại khoa và phát triển thành lý vì chung nhất cho việc thay van ở các nước tăng trưởng. nhưng mà, ở bệnh nhân già yếu không thích hợp cho việc phẫu thuật thì hẹp động mạch máu chủ có biểu hiện là yếu tố làm nhức ngực và suy tim, và việc chữa trị nội khoa cho những người mắc bệnh này là biện pháp điều trị duy nhất để làm suy giảm tình trạng.
dùng thận trọng thuốc chẹn và nitrate có thể kiểm soát được đau ngực, nhưng nitrate có thể làm tụt huyết áp có tình trạng, đặc thù là sử dụng sau khi gắng sức. Thuốc lợi tiểu có khả năng khiến cho suy giảm triệu chứng sung huyết phổi, nhưng cũng buộc phải nhớ rằng với những bệnh nhân hẹp động mạch chủ nặng thì phụ thuộc vào áp lực đổ đầy thất và việc dùng lợi tiểu qúa mức có thể làm nguy hại.
Digoxin có lợi đối với người mắc bệnh rung nhĩ hoặc suy chức năng tâm thu thất trái. Rung nhĩ sẽ dung nạp kém và trong tình huống này cần tìm mọi cách điều chỉnh nhịp xoang từ sốc điện chuyễn nhịp, hoặc thuốc phòng loạn nhịp amiodarone.
tất cả các bác sỹ tránh sử dụng ức chế men chuyển trên một số người mắc bệnh hẹp động mạch chủ và suy tim bởi vì những thuốc này ko làm giảm hậu tải thất trái và nguy hiểm là có thể làm tụt huyết áp.
Nhưng các nghiên cứu lâm sàng nhỏ đánh giá trị liệu ngắn hạn của những thuốc giãn mạch đã loại bỏ một vài mối nghi ngờ trên. ví dụ như, hai nghiên cứu lâm sàng nhỏ mô tả hữu hiệu tức thì của captopril trong hẹp động mạch chủ nặng (độ chênh áp trung bình qua van ĐMC là 78 và 93 mmHg) không các không làm tụt huyết áp mà còn khiến cho tăng cung lượng tim trung bình rõ ràng và áp lực mô mạch máu phổi bít suy giảm một phương pháp đáng kể trên đa số người mắc bệnh.
Trong các nghiên cứu này, cung lượng tim trung bình tăng 41% trong một vài người bị mắc bệnh có suy tim thực sự. Hơn nữa người bị bệnh có đáp ứng huyết động học rất hiệu quả bằng việc chữa trị lâu dài.
phải những nghiên cứu sâu hơn để chứng minh nhưng một điều rõ ràng là các người mắc bệnh suy tim có hẹp động mạch máu chủ có thể có tốt bằng việc sử dụng ức chế men chuyển và một số thuốc này đang được giới thiệu một biện pháp thận trọng trong bệnh viện.
Hạn chế ngừa thứ phát
Trong hẹp động mạch chủ, nghiên cứu về tiến triển tự nhiên đã cho thấy diện tích van giảm hằng năm là 0.1cm2, với sự tăng vận tốc trung bình dòng phụt qua siêu âm màu là 0.3 m/s/năm (tương đương với độ chênh áp tăng 7mmHg/năm). tuy vậy, điều này chuyển đổi đáng nhắc và có xu hướng nhiều hơn ở người già, ở những người có vôi hóa van ÐMC, có tăng lipid máu.
Một nghiên cứu ở 170 người bệnh với nồng độ cholesterol trong máu cao hơn 5.2mmol/l (200mg/dl) thì suy giảm thể tích van ÐMC gấp đôi. Hơn nữa, một nghiên cứu hồi cứu có chủ đích gần đây cho thấy việc dùng chất ức chế men HMG CoA(statin) liên quan đáng nói đến giảm tỉ lệ hẹp van ÐMC ( trung bình (SD) 0.06(0.16 ) cm2 so với 0.11 (0.11) cm2/năm).
=> Tìm hiểu thêm: cách chữa viêm họng cho trẻ sơ sinh
vài nghiên cứu này có ngụ ý rõ ràng cho việc ngăn ngừa ngừa thứ phát trong vài người mắc bệnh hẹp ÐMC vôi hóa, và một số thử nghiệm đối chứng tự nhiên đã sinh ra giả thuyết rằng trị liệu làm giảm lipid máu từ ức chế men HMG CoA thường khiến chậm quá trình tiến triển của bệnh lý. vài thử nghiệm điều trị từ aspirin và thuốc hạ áp cũng đã được chứng minh là có lợi.